Luật
thuế GTGT số 13/2008/QH12 được thông qua ngày 03/6/2008 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội
Khoá XII có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009 để thay thế cho Luật thuế GTGT
năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT năm 2003,
năm 2005. Qua quá trình triển khai thực hiện, những quy định của Luật thuế GTGT
đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước
và đạt được mục tiêu đề ra khi ban hành Luật. Tuy nhiên, do những biến động
nhanh về kinh tế - xã hội và trước yêu cầu ngày càng cao về hiện đại hóa công
tác quản lý thuế nên một số quy định của Luật đã bộc lộ những hạn chế, vướng mắc
cần phải được sửa đổi, bổ sung.
Ngày
19/6/2013, Quốc hội khoá 13 đã thông qua Luật số 31/2013/QH13 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật thuế GTGT, có hiệu lực từ ngày 01/01/2014. Nội dung sửa đổi, bổ sung của Luật thuế GTGT lần này tập trung vào 7 nhóm vấn
đề, cụ thể:
1. Về đối tượng không
chịu thuế:
Để
phù hợp và đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống phát luật, đồng thời để thực hiện chiến lược, chính sách phát triển của
Đảng và Nhà nước, Luật thuế GTGT số 31/2013/QH13 đã bổ sung đối tượng
không chịu thuế GTGT: “Bảo hiểm sức khỏe, các dịch vụ bảo hiểm khác liên
quan đến con người; các dịch vụ bảo hiểm nông nghiệp khác; bảo
hiểm tàu, thuyền;trang thiết bị và các dụng cụ cần
thiết khác phục vụ trực tiếp đánh bắt thuỷ sản; Bán tài sản bảo đảm của
khoản nợ của tổ chức Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập để
xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam; Phụ tùng thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu
khoa học”.
Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ sung đã chuyển
“dịch vụ phục vụ công cộng về vệ sinh, thoát nước đường phố và khu dân cư” từ
đối tượng không chịu thuế sang đối tượng
chịu thuế suất 10%. Việc chuyển dịch vụ này vào diện chịu thuế GTGT là cần thiết để bảo đảm
tính liên hoàn của thuế GTGT, vì trong thực tiễn các doanh nghiệp đã đầu tư lớn
cho việc xử lý chất thải, tái chế phế liệu mà sản phẩm đầu ra (phân vi sinh, sản
phẩm tái chế từ nhựa, thuỷ tinh,...) chịu thuế GTGT nhưng không được khấu trừ,
hoàn thuế GTGT đầu vào. Trường hợp cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo phương thức
Nhà nước đặt hàng thì Nhà nước bố trí đủ kinh phí để doanh nghiệp nộp thuế.
Ngoài ra, Luật thuế GTGT số 31/QH13/2013
đã chuyển đổi căn cứ để xác định hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế
GTGT của hộ, cá nhân kinh doanh có thu nhập thấp từ tiêu thức thu nhập
so với mức tiền lương tối thiểu sang tiêu thức doanh thu. Cụ thể: “Hàng hóa, dịch vụ của cá
nhân kinh doanh có mức doanh thu hàng năm từ 100 triệu đồng trở xuống thuộc đối
tượng không chịu thuế GTGT”. Việc
chuyển đổi căn cứ này nhằm đảm bảo phù hợp bản chất của thuế GTGT là thu
theo hàng hóa và dịch vụ, đồng thời đảm bảo sự ổn định hơn của chính sách so với
quy định theo mức lương tối thiểu chung như hiện hành (mức lương
tối thiểu thường được Nhà nước điều chỉnh hàng năm) và khắc phục sự phức tạp
trong quá trình thực hiện do phải xác định thu nhập của các đối tượng này, tạo
thuận lợi hơn cho cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc thực thi pháp luật thuế GTGT.
2. Về giá tính thuế GTGT:
Bổ sung quy định “giá tính thuế GTGT đối với hàng hoá chịu thuế bảo vệ môi trường là
giá bán đã có thuế bảo vệ môi trường nhưng chưa có thuế GTGT”. Việc bổ sung quy định này là để bảo đảm đồng bộ trong hệ thống chính sách thuế và phù hợp với nguyên tắc và thông lệ quốc tế về giá tính thuế GTGT là giá
bán cuối cùng chưa có thuế GTGT. (TheoLuật thuế bảo vệ môi trường thì Thuế BVMT là
khoản thuế gián thu tính bằng mức tuyệt đối cộng vào giá bán của hàng hoá chịu
thuế do người mua, người nhập khẩu hàng hoá trả. Thuế BVMT cấu thành trong giá
vốn hàng hoá của người nộp thuế BVMT. Do vậy trong các khâu sau khâu nộp thuế
người bán không thể xác định được số thuế BVMT trong giá trị hàng hoá khi bán
cho khách hàng, không tách được thuế BVMT khỏi giá tính thuế GTGT).
3. Về thuế suất thuế GTGT:
Bổ sung quy định về nguyên tắc xác định hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu áp dụng
thuế suất 0% là “Hàng hoá, dịch vụđược tiêu dùng ở ngoài Việt Nam, trong khu
phi thuế quan; hàng hoá, dịch vụ cung cấp cho khách hàng nước ngoài theo quy định
của Chính phủ”. Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế về
việc xác định hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được căn cứ vào nơi tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ ở nước ngoài, kể cả các loại hình dịch vụ thực hiện trong nước nhưng được
sử dụng (tiêu dùng) ở nước ngoài, tránh các trường hợp lách
luật (cung cấp dịch vụ cho nước ngoài nhưng thực tế dịch vụ tiêu dùng tại Việt
Nam) cũng như giải quyết được vướng mắc cho NNT trong trường hợp dịch vụ được
xuất khẩu và được tiêu dùng ngoài Việt Nam nhưng không được xem là xuất khẩu
theo quy định hiện hành vì phía nước ngoài này có cơ sở thường trú tại Việt
Nam.
Bổ sung mức thuế suất 5% đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở xã hội theo
quy định của Luật nhà ở.
4. Về ngưỡng đăng ký nộp thuế GTGT và phương pháp tính thuế
a) Ngưỡng đăng ký nộp thuế GTGT theo phương
pháp khấu trừ
Thực
tế quản lý thuế hiện có khoảng 550.000 tổ chức kinh tế thuộc diện kê khai và nộp
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Trong đó có khoảng 1/3 là doanh nghiệp có
quy mô nhỏ và rất nhỏ, doanh thu chưa tới 1 tỷ đồng/năm, số thu thuế GTGT chiếm
khoảng 0,3% tổng thu về thuế GTGT. Đối với hầu hết doanh nghiệp nhỏ, rất
nhỏ, việc tổ chức bộ máy kế toán chưa bảo đảm tuân thủ theo Luật kế toán, chế độ
hoá đơn chứng từ. Một số ít doanh nghiệp lợi dụng cơ chế thông thoáng trong việc
thành lập doanh nghiệp để thành lập doanh nghiệp mua bán hoá đơn, thậm chí lập
khống hoá đơn cho các doanh nghiệp khác để kê khai khấu trừ đầu vào, vừa ảnh hưởng
tiêu cực đến môi trường kinh doanh, vừa gây thất thu NSNN.
Theo
kinh nghiệm quốc tế thì đa số các nước đều có quy định ngưỡng doanh thu kê
khai nộp thuế GTGT để xác định đối tượng đăng ký nộp thuế GTGT theo phương pháp
khấu trừ (có doanh thu vượt trên mức ngưỡng) nhằm đơn giản hoá thủ tục, tiết kiệm
chi phí cho người nộp thuế có qui mô kinh doanh nhỏ và chống gian lận thuế. Chính
vì thế Luật thuế GTGT lần này đã bổ sung quy định về ngưỡng doanh thu nộp
thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. Cụ thể: Cơ sở kinh doanh có doanh thu hàng năm từ bán hàng
hoá, cung ứng dịch vụ từ một tỷ đồng trở lên, trừ hộ, cá nhân kinh
doanhvà trừ trường hợp đăng ký tự nguyện áp dụng
phương pháp khấu trừ.
Như vậy, từ ngày 01/01/2014, hộ, cá nhân kinh
doanh thuộc đối tượng áp dụng thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp - không thuộc
đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ kể cả trường hợp có doanh thu hàng năm
trên 1 tỷ.
b) Về phương pháp tính trực tiếp:
Phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia
tăng: Áp
dụng đối với hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý.
Cách
xác định: Số thuế phải nộp bằng (=) Giá trị gia tăng nhân (x) Thuế
suất thuế giá trị gia tăng.
Phương pháp tính trực tiếp trên
giá trị gia tăng bằng tỷ lệ % nhân với doanh thu: Áp dụng đối với Doanh nghiệp, hợp tác xãcó
doanh thu hàng năm dưới mức ngưỡng doanh thu một tỷ đồng, trừ trường hợp đăng
ký tự nguyện áp dụng phương pháp khấu trừ thuế; Hộ, cá nhân kinh doanh;
Nhà thầu nước ngoài chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn, chứng từ.
Cách
xác định: Số thuế phải nộp bằng (=) Tỷ lệ % nhân (x) Doanh thu.
Tỷ
lệ % để tính thuế GTGT được phân biệt theo 4 loại ngành nghề: Phân phối, cung cấp
hàng hoá: 1%; Dịch vụ, xây dựng không bao thầu nguyên vật liệu: 5%; Sản
xuất, vận tải, dịch vụ có gắn với hàng hoá, xây dựng có bao thầu nguyên vật liệu:
3%; Hoạt động kinh doanh khác: 2%.
5. Về khấu trừ thuế GTGT
Để phù hợp với quy định pháp luật về quản lý thuế đồng thời
đảm bảo quyền lợi và tạo thuận lợi cho người
nộp thuế, Luật Thuế GTGT số 31/2013/QH13 đã bỏ khống chế thời hạn (6 tháng) kê khai, khấu trừ thuế
GTGT đầu vào đối với hóa đơn điều chỉnh bổ sung trong
trường hợp có sai sót, theo đó “cơ sở kinh doanh phát hiện số thuế giá trị
gia tăng đầu vào khi kê khai, khấu trừ bị sai sót thì được kê khai, khấu trừ bổ
sung trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại
trụ sở người nộp thuế.”
Đồng thời, Luật thuế GTGT số 31/2013/QH13 cũng bỏ quy định “thuế GTGT đầu vào của TSCĐ
sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh HHDV chịu thuế GTGT và không chịu
thuế GTGT được khấu trừ toàn bộ” để bảo đảm nhất quán với
nguyên tắc chỉ khấu trừ thuế GTGT đầu vào sử dụng cho sản xuất, kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, tránh các trường hợp lợi dụng để
trục lợi và góp phần xử lý các vướng mắc trong hoàn thuế GTGT hiện nay.
6. Về hoàn thuế GTGT
Bổ sung trường hợp hoàn thuế theo quý,
theo đó trường hợp cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng khai theo quý nếu có số
thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết trong quý thì được khấu trừ
vào kỳ tiếp theo; trường hợp sau bốn quý tính từ quý đầu tiên phát sinh số
thuế giá trị gia tăng chưa được khấu trừ mà vẫn còn số thuế giá trị gia
tăng đầu vào chưa được khấu trừ thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế.
Sửa đổi phương thức
hoàn thuế: từ “trong 03
tháng liên tục có số thuế chưa được khấu trừ hết” thành “sau ít nhất
mười hai tháng tính từ tháng đầu tiên nếu còn số thuế âm mới được hoàn thuế”. Việc
sửa đổi quy định này sẽ có tác dụng khắc phục bất cập hiện nay, giảm khó
khăn cho quỹ hoàn thuế, góp phần chống lợi dụng, gian lận trong hoàn thuế đồng
thời có tác dụng thúc đẩy doanh nghiệp sản xuất trong nước đẩy nhanh việc đưa dự
án vào hoạt động và thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, trong khi đó các
doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được hoàn thuế như hiện nay.
Sửa mức thuế tối thiểu
được hoàn đối với đầu tư và xuất khẩu đang quy định là 200 triệu đồng thành 300 triệu
đồng.Việc sửa đổi quy định này sẽ góp phần bảo đảm phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế, xã hội và điều kiện, khả năng quản lý hiện nay, giảm bớt thủ tục
hành chính, tạo thuận lợi cho người nộp thuế và cơ quan thuế, giảm khối lượng hồ
sơ hoàn thuế
Bổ sung quy định việc
hoàn thuế đối với hàng hoá mang theo khi xuất cảnh của người mang hộ chiếu nước
ngoài.
7. Về giải pháp giảm
thuế GTGT và hiệu lực thi hành
Nhằm
góp phần hỗ trợ cho doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp trong lĩnh vực bất động sản, đồng thời thể
hiện sự chia sẻ, hỗ trợ của nhà nước đối với những người có thu nhập thấp trong
việc mua nhà ở thì một số nội dung trong Luật thuế GTGT số 31/2012/QH13 đã được phép áp dụng
ngay từ 01/7/2013. Cụ thể:
Giảm 50% mức thuế suất thuế giá trị gia tăng (từ ngày 01/7/2013 đến hết
ngày 30/6/2014) đối với bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở thương mại là căn hộ
hoàn thiện có diện tích sàn dưới 70 m2 và có giá bán dưới 15
triệu đồng/m2.
Áp dụng thuế suất 5% đối với bán, cho thuê, cho thuê
mua nhà ở xã hội theo quy định của Luật nhà ở.







0 nhận xét:
Đăng nhận xét